Ngày nay với sự phát triển của kỹ thuật y học, vấn đề chẩn đoán tai biến mạch máu não(TBMMN) trở nên dễ dàng hơn. Theo Hội Tim mạch Hoa Kỳ ước tính trên toàn cầu năm 2019 có 101,5 triệu người mắc đột quỵ não(ĐQN) mới, trong đó nhồi máu não là 77,2 triệu người, xuất huyết não là 24,3 triệu người. Cùng theo đó là tỉ lệ mắc bệnh có xu hướng tăng tỷ lệ tử vong đã giảm. Tuy nhiên, TBMMN để lại di chứng liệt cho người bệnh rất nặng nề và kéo dài. Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới thì người bệnh bị liệt nửa người do TBMMN thuộc loại đa tàn tật, mà chủ yếu là giảm hoặc mất chức năng vận động kèm theo các tối loạn tri giác, nhận thức, tâm lý. Di chứng về vận động của TBMMN là 92,62%, di chứng nặng là 27,69%, di chứng vừa và nhẹ là 68,42% . Những di chứng này gây ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến khả năng thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày cũng như khả năng tái hội nhập vào đời sống cộng đồng.
Vấn đề dặt ra cho y học phải phục hồi chức năng vận động cho người bệnh trên cơ sở kết hợp có chọn lọc nhiều phương thức trị liệu cả Y học hiện đại và Yhọc cổ truyền một cách hợp lý là một nhu cầu có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn, nhằm giảm thiểu những di chứng, đưa người bệnh nhanh chóng trở lại hòa nhập với cuộc sống gia đình và xã hội.
Liệt nửa người – di chứng do Tai biến mạch máu não
Liệt nửa người là tình trạng một bên cơ thể suy yếu, đau tê nửa người bên phải hoặc bên trái phụ thuộc vào vùng não bị tổn thương khi đột quỵ hoặc các nguyên nhân khác. Tổn thương não trái sẽ gây ra liệt nửa người phải và ngược lại. Bên liệt sẽ có cử động yếu hơn bên còn lại hoặc thậm chí không thể cử động.
- Chẩn đoán xác định liệt nửa người dựa vào thăm khám lâm sàng và cả xét nghiệm hỗ trợ. Bệnh sử và khám lâm sàng rất quan trọng hệ thống thần kinh nhằm xác định hướng điều trị.
Một số xét nghiệm, cận lâm sàng để xác định nguyên nhân gây bệnh gồm có:
+ Công thức máu
+ Sinh hóa máu
+ Chụp cắt lớp vi tính sọ não
+ Chụp cộng hưởng từ sọ não
+ Điện não đồ
Triệu chứng lâm sàng: tình trạng liệt nửa người và rối loạn ngôn ngữ, liệt mặt, có thể rối loạn cơ tròn (bí đái hoặc không tự chủ), rối loạn nuốt (sonde dạ dày).
* Các biện pháp điều trị liệt nửa người
Bệnh nhân liệt nửa người cần mất một thời gian để hồi phục, không phải mọi trường hợp đều giống nhau và có cùng hiệu quả điều trị. Thay vào đó chúng tôi điều trị bệnh phụ thuộc và nguyên nhân gây ra liệt nửa người. Các phương pháp điều trị bao gồm cả dùng thuốc và phương pháp không dùng thuốc:
+ Dùng thuốc hạ áp và giảm cholesterol cho người bị liệt nửa người do đột quỵ và có nguy cơ tái phát bệnh như người bị tăng huyết áp hay tim mạch.
+ Dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu giúp giảm tắc nghẽn mạch và nguy cơ tái đột quỵ.
+ Thuốc kháng sinh đường tĩnh mạch được dùng nhằm chống viêm não.
+ Phương pháp phẫu thuật nhằm giải quyết phù não.
+ Điều trị vật lý trị liệu giúp những vùng não xung quanh chỗ tổn thương có thể hoạt động cũng như hỗ trợ bên cơ thể không bị liệt, giúp kiểm soát cử động và duy trì sức khỏe.
+ Tăng cường hỗ trợ cơ chân và thăng bằng qua các bài tập, mang giày phẳng, rộng, sử dụng thiết bị trợ giúp theo chỉ định và không vịn tường hay bàn ghế khi đi bộ.
Bệnh liệt nửa người - (Bán thân bất toại ) Di chứng TBMMN theo Y học cổ truyền:
Sau khi bị trúng phong, người bệnh còn lại di chứng trúng phong; ở đây chủ yếu là bán thân bất toại biểu hiện thượng hạ chi của bán thân bên trái hoặc bên phải tê dại, không cử động, còn có cảm giác biết đau, biết nóng- lạnh,; tay không còn cầm nắm được, chân không đi lại được.
Trạng thái thực: Người bệnh có bán thân bất toại, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, thích ăn đồ mát, đại tiện táo, tiểu vàng, chân tay ấm, mạch phù huyền hữu lực.
Trạng thái hư: Người bệnh có bán thân bất toại, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, thích ăn đồ ấm, đại tiện lỏng, tiểu trong, chân tay lạnh, mạch trầm huyền vô lực.
Trong nhiều năm qua khoa Yhọc cổ truyền – Bệnh viện Đa khoa Hải Dương đã điều trị di chứng liệt vận động cho nhiều bệnh nhân bị tai biến mạch não bằng phương pháp Y học hiện đại kết hợp Y học cổ truyền.



Một số hình ảnh điều trị, tập vận động, tư vấn sức khỏe tại Khoa Y học cổ truyền Bệnh viện Đa khoa Hải Dương
Qua nghiên cứu của chúng tôi thời gian từ 01/2025 đến 10/2025, có 60 Bệnh nhân(BN) tham gia nằm điều trị tại khoa Y học cổ truyền - Bệnh viện Đa khoa Hải Dương cho thấy:
BN mắc liệt nửa người sau đột quỵ nam giới chiếm nhiều hơn với 67%, lứa tuổi từ trên 60 tuổi có tỷ lệ khá lớn 83.3%; 61-70 tuổi là 35%.Tất cả các BN này đều có một hay nhiều bệnh nền đi kèm(cao HA, ĐáiTháo Đường, tim mạch, nghiện rượu….).
Các BN này đến với chúng tôi có độ liệt Rankin và điểm Barthel khá nặng nề ở D0- D10(Rankin độ IV là 68.3% và 61.7%;Barthel độ 3 là 71.7% và 63.3%).
Sau khi điều trị 20 ngày BN của nhóm nghiên cứu mới có tiến triển BN hồi phục dần các chức năng khá cùng hiệu quả điều trị có ý nghĩa thống kê, Rankin là 19 BN(31.7%) tôt-khá, trung bình là 38BN(63.3%);Barthel là 17 BN tốt-khá(28.3%). trung bình là 43 BN(71.7%).
Sự khác biệt về tỷ lệ cải thiện giữa nhóm điều trị dưới 10 ngày và trên 10 ngày của đột quỵ cấp không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Kết quả này gợi ý rằng thời gian điều trị ngắn hơn hay dài hơn 10 ngày không ảnh hưởng rõ rệt đến mức độ cải thiện chức năng theo thang Barthel. Sự phục hồi của bệnh nhân có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như mức độ tổn thương ban đầu, phương pháp điều trị, mức độ tuân thủ tập luyện, cũng như tình trạng thể chất và tinh thần của người bệnh.
Có thể nhận thấy rằng không có yếu tố nào (tuổi, giới, bệnh nền, bên tổn thương) ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến kết quả phục hồi chức năng trong 20 ngày đầu điều trị. Tất cả các nhóm bệnh nhân đều có sự cải thiện rõ rệt về độ liệt Rankin và điểmBarthel, khẳng định hiệu quả của chương trình phục hồi chức năng sớm, liên tục và đa mô thức. Kết quả này góp phần củng cố quan điểm hiện nay trong phục hồi chức năng sau nhồi máu não: “Phục hồi chức năng sớm – tích cực – toàn diện” là yếu tố quyết định kết quả điều trị, vượt lên trên các yếu tố cá nhân như tuổi hay bệnh nền. Điều này có ý nghĩa lâm sàng quan trọng, giúp bác sĩ lâm sàng mạnh dạn triển khai điều trị phục hồi ngay từ giai đoạn cấp tính, không trì hoãn do tuổi cao, giới tính hay có nhiều bệnh kèm theo. Đồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng phác đồ tập luyện cá thể hóa, kết hợp giữa vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu, và chăm sóc tâm lý – xã hội cho bệnh nhân đột quỵ.
Khoa Y học cổ truyền
Bệnh viện Đa khoa Hải Dương